ThS. Trương Văn Đạt
TS. Đặng Thị Kiều Nga
TS. Nguyễn Thị Hải Yến
DS. Trần Thoại Khanh
Bộ môn Quản lý Dược, Khoa Dược – ĐH Y Dược TP. HCM
Theo chuẩn đầu ra dược sĩ của Trung tâm phát triển phát triển giáo dục Dược Mỹ (CAPE), ngoài kiến thức nền tảng thì việc phát triển các kỹ năng cá nhân và kỹ năng làm việc chuyên nghiệp (personal and professional skills) để hỗ trợ cho quá trình hành nghề Dược là vô cùng quan trọng. Bốn chuẩn đầu ra yêu cầu với Dược sĩ được CAPE đề cập bao gồm: (1) Kiến thức nền tảng; (2) Kỹ năng hành nghề với mục đích lấy người bệnh làm trung tâm; (3) Kỹ năng tiếp cận thực hành và chăm sóc dược hiệu quả; (4) Kỹ năng cá nhân và kỹ năng làm việc chuyên nghiệp trong hành nghề Dược. Năm 2013, CAPE đã cụ thể hoá tiêu chuẩn thứ tư bằng 04 nhóm kỹ năng lớn bao gồm: (a) Kỹ năng tự đánh giá (self – awareness); (b) Kỹ năng lãnh đạo (leadership); (c) Kỹ năng đổi mới và khởi nghiệp (innovation and entrepreneurship); và (d) Kỹ năng làm việc chuyên nghiệp (professionalism). Những kỹ năng này phải được định hướng và trau dồi ngay từ khi còn là sinh viên. Đây là mục tiêu cơ bản và tiên quyết nhất mà các cơ sở đào tạo dược cần hướng tới nhằm giảm chi phí, thời gian đào tạo lại cho các cơ sở hành nghề Dược sau này, cũng như góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dược sau khi ra trường, nâng tầm vị thế của cơ sở đào tạo dược trong nước và trên toàn thế giới. Trong số 04 nhóm kỹ năng nói trên, Kỹ năng lãnh đạo là kỹ năng được quan tâm từ đặc biệt hơn cả.
Tổ chức Dược sĩ bệnh viện ở Châu Âu (European association of hospital pharmacists – EAHP) cũng đã phát triển khung dự thảo chuẩn năng lực dược sĩ của mình thông qua một nhóm lớn gồm các dược sĩ bệnh viện từ khắp châu Âu và đã nỗ lực để đảm bảo rằng hầu hết quy định hiện hành ở các quốc gia khác nhau đều, trong đó có đề cập đến Kỹ năng lãnh đạo thông qua các hoạt động hành nghề. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự thiếu hụt kỹ năng lãnh đạo trong ngành dược. Năm 2008, Ross T. Tsuyuki dự đoán một cuộc khủng hoảng nhân lực thiếu hụt kỹ năng lãnh đạo trong ngành dược trên toàn cầu, tuy nhiên, không có quá nhiều hành động để thay đổi kể từ đó. Shizake và cộng sự vào năm 2018 đã nhấn mạnh rằng: “một ngành nghề mà nguồn nhân lực không có kỹ năng lãnh đạo thì ngành nghề đó sẽ không phát triển bền vững”. Đồng thời, những dược sĩ tham gia nghiên cứu này cũng nhận thức rõ sự thiếu hụt năng lực lãnh đạo trên diện rộng, từ đó dẫn đến sự thiếu vắng những người lãnh đạo dược đúng hướng. Trong khảo sát Quốc gia về Tầm quan trọng của Kỹ năng lãnh đạo trong chương trình đào tạo Dược do nhóm nghiên cứu Đại học Texas thực hiện cũng khẳng định Kỹ năng lãnh đạo là một nghiệp vụ dược cần có của mọi dược sĩ. Vấn đề cấp thiết và quan trọng nhất hiện nay là phải tích hợp việc phát triển kỹ năng lãnh đạo trong các chương trình đạo tạo dược để đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp
Kỹ năng lãnh đạo là khả năng của người lãnh đạo vận dụng những kiến thức lý thuyết, phương thức hành động, kinh nghiệm đã có để thực hiện các hoạt động lãnh đạo phù hợp với điều kiện cụ thể và mang lại kết quả tốt. Người ta cũng thường định nghĩa lãnh đạo là một quá trình mà một người ảnh hưởng đến những người khác để thực hiện một mục tiêu nào đó, đồng thời hướng tổ chức tới sự gắn kết chặt chẽ. Theo George R.Terry: “Lãnh đạo là một hoạt động gây ảnh hưởng đến con người nhằm phấn đấu một cách tự nguyện cho những mục tiêu của nhóm. John Quincy Adams (Tổng thống thứ 6 Hoa Kỳ) từng phát biểu: “Nếu những hành động của bạn truyền cảm hứng cho những người khác ước mơ nhiều hơn, học hỏi nhiều hơn, làm nhiều việc hơn và trở nên tốt đẹp hơn, bạn là một người lãnh đạo.” Tất cả những định nghĩa trên đều có một điểm chung – một cá nhân tự ảnh hưởng và gây ảnh hưởng đến những người khác để có thể đạt được mục tiêu cụ thể.
Các yêu cầu của nghề dược đang thay đổi trên toàn cầu, chuyển từ chức năng cung ứng sang một mô hình cung cấp dịch vụ y tế tích hợp hơn. Để tối ưu hóa đóng góp của mình cho ngành y tế, dược sĩ cần thể hiện vai trò lãnh đạo của mình không chỉ trong quá trình hành nghề dược, mà đó còn là sự chuẩn bị liên tục của sinh viên – những dược sĩ tương lai sẽ đảm nhận các vai trò mở rộng hoặc mở rộng mới này.
Hệ thống y tế rất phức tạp và liên tục trải qua sự thay đổi. Dược sĩ cần có khả năng đáp ứng với môi trường thay đổi liên tục này và thích ứng một cách nhanh chóng. Điều này đòi hỏi sinh viên tốt nghiệp ngành dược phải có cả kỹ năng và khả năng thích nghi với việc thay đổi vai trò và thay đổi môi trường làm việc. Do đó, ngoài kiến thức chuyên môn, các cơ sở đào tạo dược phải hình dung một cách giáo dục các dược sĩ tương lai có đủ những phẩm chất này. Để đạt được vị trí dẫn đầu trong giáo dục dược, cần phải có một cách tiếp cận tư duy hệ thống mềm. Cách tiếp cận này yêu cầu một người phải suy nghĩ về một vấn đề hoặc nhiệm vụ một cách tổng thể và có hệ thống. Các cơ sở giáo dục dược cần được “kết nối” với hệ thống chăm sóc sức khỏe theo một cách nào đó. Giáo dục dược đòi hỏi sự tham gia không chỉ với nghề nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp quốc gia và quốc tế, mà còn trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe rộng lớn hơn và các bên liên quan.
Báo cáo giáo dục dược quốc tế đầu tiên được Liên đoàn Dược phẩm Quốc tế (FIP), cung cấp năm 2013 đề ra một nền tảng cơ bản về giáo dục dược toàn cầu và báo cáo về các sáng kiến giáo dục dược trên toàn thế giới. Thông điệp chính từ báo cáo này là nhu cầu về sự liên kết giữa giáo dục dược và toàn xã hội để mang lại kết quả chăm sóc sức khỏe người bệnh trên toàn cầu. Năm 2016, FIP đã tổ chức hội nghị toàn cầu đầu tiên về Giáo dục và Khoa học Dược, mang đến “một tầm nhìn toàn cầu thống nhất về dược phẩm chuyên nghiệp giáo dục và phát triển lực lượng lao động nhằm phù hợp với các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc và cụ thể là Mục tiêu 3 – sức khỏe tốt. Khái niệm Dược sĩ bảy sao (seven – star pharmacist concept) do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra nêu rõ các kỹ năng và thuộc tính cần thiết để dược sĩ đảm nhận việc mở rộng và vai trò hiệu quả của mô hình chăm sóc sức khỏe tích hợp. Năm 2000 FIP đã xác nhận khái niệm này trong chính sách của mình tuyên bố về Thực hành Giáo dục Dược phẩm Tốt. Bảy thuộc tính được liệt kê là người chăm sóc, người ra quyết định, người giao tiếp, người quản lý, người học suốt đời, người dạy và người lãnh đạo. Một thuộc tính thứ tám – người nghiên cứu, đã được thêm vào năm 2006.
Bất kỳ hệ thống phức tạp nào về bản chất của nó đều có đặc tính nổi lên. Đối phó với những đặc tính nổi cộm này đòi hỏi các chuyên gia chăm sóc sức khỏe phải linh hoạt, chứng tỏ hiệu quả kỹ năng giải quyết vấn đề và thể hiện mức độ trí tuệ cảm xúc cao. Dẫn đầu những phức hợp này các tổ chức chăm sóc sức khỏe sẽ yêu cầu tư duy phản biện và kỹ năng giải quyết vấn đề và cả khả năng làm việc độc lập. Những loại kỹ năng này không thể được dạy theo kiểu nội dung giáo khoa truyền thống. Từ đó, Frankel và cộng sự đề xuất chuẩn hóa các quy trình tuyển sinh cho các trường dược nhằm để thu hút những sinh viên “có kỹ năng tư duy phản biện bẩm sinh và phẩm chất lãnh đạo”.
Hướng dẫn 9.3 của Hội đồng Chứng nhận Tiêu chuẩn Giáo dục Dược (ACPE) và Hướng dẫn cho Chương trình Đào tạo Dược Chuyên nghiệp về của Mỹ nêu rõ rằng “chương trình giảng dạy đại học hoặc phổ thông phải thúc đẩy sự phát triển của sinh viên với tư cách là những nhà lãnh đạo và tác nhân của sự thay đổi. Cụ thể hơn, các tiêu chuẩn nêu rõ rằng “Chương trình giảng dạy nên phát triển khả năng sử dụng các công cụ và chiến lược cần thiết để ảnh hưởng đến sự thay đổi tích cực trong thực hành dược và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Trọng tâm của phát triển lãnh đạo là hướng vào các khả năng liên quan đến việc ảnh hưởng đến sự thay đổi tích cực. Trong bối cảnh thay đổi chương trình giảng dạy, các thành viên của học viện ủng hộ quan điểm rằng “sinh viên dược phải phát triển các kỹ năng và mong muốn tạo ra sự thay đổi tích cực trong thực hành hiện tại và tương lai của họ”.
Mặc dù các tài liệu hiện có cung cấp định hướng, nhưng lại không xác định các năng lực mong muốn cần thiết cho các dược sĩ đại học. Việc xác định năng lực là cần thiết để tập trung phát triển các cơ hội học tập lãnh đạo, xác định các đánh giá học tập thích hợp và xác định đánh giá chương trình. Trên thực tế, giá trị của việc xác định năng lực cạnh tranh trong giáo dục nghề nghiệp y tế đã được mô tả là “tạo ra một môi trường thúc đẩy trao quyền, trách nhiệm giải trình và đánh giá hiệu suất một cách đồng nhất và công bằng”. Trong ngành dược, các nhóm chuyên gia đã được gọi để xác định năng lực trong các lĩnh vực như dược lâm sàng và thực hành dược ung thư. Năm 2000, Mạng lưới Lãnh đạo Y tế Công cộng Quốc gia đã xác định 79 năng lực lãnh đạo cho các chuyên gia y tế công cộng. Họ khuyến nghị rằng nội dung chương trình hướng dẫn công việc và phát triển modun, cũng như các biện pháp thực hiện và phương pháp đánh giá. Mục đích của công việc này là thu thập ý kiến chuyên gia để hỗ trợ các ủy ban chương trình giảng dạy và các giảng viên lãnh đạo trong việc xác định năng lực phát triển lãnh đạo của sinh viên cho chương trình đào tạo dược sĩ (PharmD).
Tài liệu tham khảo
- Nissen L. M. et al. (2018), “Chapter 18 – Leadership in Pharmacy Education”, trong Ahmed Ibrahim Fathelrahman et al., chủ biên, Pharmacy Education in the Twenty First Century and Beyond, Academic Press, pp. 297-309.
- Medina M. S. et al. (2013), “Center for the Advancement of Pharmacy Education 2013 educational outcomes“, American journal of pharmaceutical education. 77 (8),pp.162-162.
- Hartmann M. C. (2007), “European Association of Hospital Pharmacists“.
- Tsuyuki R. T. (2018), “A leadership crisis in pharmacy“, Canadian pharmacists journal : CPJ = Revue des pharmaciens du Canada : RPC. 152 (1),pp.6-7.
- Shikaze D. et al. (2018), “Community pharmacists’ attitudes, opinions and beliefs about leadership in the profession: An exploratory study“, Canadian pharmacists journal : CPJ = Revue des pharmaciens du Canada : RPC. 151 (5),pp.315-321.
- Cho J. C. et al. (2015), “National Survey Regarding the Importance of Leadership in PGY1 Pharmacy Practice Residency Training“, Hospital pharmacy. 50 (11),pp.978-984.
- Organization W. H., “International Pharmaceutical Federation (FIP), 2006“, New tool to enhance role of pharmacists in health care, http: II www. who. int/media centre/news/new/2006/nw05/en/index. html.
- Organization W. H. (2016), “Medicines shortages: global approaches to addressing shortages of essential medicines in health systems“, WHO Drug Information. 30 (2),pp.180-185.
- Organization W. H. (2015), Trends in maternal mortality: 1990-2015: estimates from WHO, UNICEF, UNFPA, World Bank Group and the United Nations Population Division, World Health Organization.
- International Pharmaceutical Federation (FIP) (2000), FIP Statement of Policy on good pharmacy education pratice
- Wiedenmayer K., Summers, R. S., Mackie, C. A., Gous, A. G. S., Everard, M., Tromp, D., … (2006), “Developing pharmacy practice: A focus on patient care: Handbook/Karin Wiedenmayer. [et al.].“, Federation, I. P. .
- Frankel G. et al. (2014), “Canadian educational approaches for the advancement of pharmacy practice“, American journal of pharmaceutical education. 78 (7),pp.143-143.
- Pharmacists A. S. o. H.-S. (2015), “Accreditation Council for Pharmacy Education“, Accreditation standards for pharmacy technician education and training programs.