ThS. Trương Văn Đạt, TS. Đặng Thị Kiều Nga, TS. Nguyễn Thị Hải Yến, DS. Trần Thoại Khanh
Bộ môn Quản lý Dược, Khoa Dược – ĐH Y Dược TP. HCM
Dân số Việt Nam hiện nay chiếm 1,25% dân số thế giới, là một quốc gia đông dân với dân số hiện tại của Việt Nam là 98.160.810 người vào ngày 27/06/2021 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc. Việt Nam đang đứng thứ 15 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ. Thị trường dược phẩm của Việt Nam hiện có quy mô khoảng 7,4 tỷ USD với 22.000 loại thuốc. Theo dự báo của Fitch Solution, tăng trưởng ngành dược Việt Nam cuối năm 2021 sẽ đạt 8,7%.
Nguồn nhân lực dược là đội ngũ làm việc cho lĩnh vực y dược học bao gồm các cán bộ chuyên môn dược đang tham gia phục vụ tại các cơ sở y tế từ tuyến trung ương đến tuyến cơ sở. Ở Việt Nam, nhân lực dược đa dạng về loại hình bao gồm: Tiến sĩ Dược, Thạc sĩ Dược học, Dược sĩ chuyên khoa, Dược sĩ đại học (DSĐH), Dược sĩ cao đẳng, Dược sĩ trung cấp, Dược tá, Kỹ thuật viên dược. Tuy nhiên, thực trạng nhân lực dược hiện nay là thiếu ở hầu hết các loại hình, đặc biệt là trình độ đại học, sau đại học. Để đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao thì việc đào tạo, nâng cao năng lực cho sinh viên dược từ ghế nhà trường là điều vô cùng quan trọng.
Năng lực là gì?
Phần lớn định nghĩa về năng lực của các tài liệu nước ngoài đều quy năng lực vào phạm trù khả năng (ability, capacity, possiblity).
- Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Thế giới (OECD) quan niệm năng lực là “khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể” [14]
- Denyse Tremblay cho rằng năng lực là “khả năng hành động, thành công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các nguồn lực để đối mặt với các tình huống trong cuộc sống” [15]
- Còn F. E. Weinert, năng lực là “tổng hợp các khả năng và kỹ năng sẵn có hoặc học được cũng như sự sẵn sàng của học sinh, sinh viên nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh và hành động một cách có trách nhiệm, có sự phê bình và tự đánh giá để đi đến giải pháp cụ thể” [16]
Thực ra, năng lực của con người thể hiện, bộ lộ qua việc thực hiện thành công hoạt động, nhưng bản thân nó lại không phải là hoạt động. Năng lực là kết quả “huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác”. Điều này có thể thấy rõ qua các định nghĩa về năng lực của Denyse Tremblay [15].
Để phân biệt năng lực với những khái niệm khác cùng phạm trù, các tài liệu trong nước và nước ngoài đều thống nhất quan niệm năng lực cá nhân được bộc lộ ở hoạt động (hành động, công việc) nhằm đáp ứng những yêu cầu cụ thể trong bối cảnh (điều kiện) cụ thể. Đây là đặc trưng phân biẹt năng lực với tiềm năng (potential) – khả năng ẩn giấu bên trong, chưa bộc lộ ra, chưa phải là hiện thực. Một số tài liệu của Việt Nam còn cho rằng năng lực gắn với các dạng hoạt động và loại hoạt động.
Việc quy chiếu năng lực với các loại hoạt động giúp chúng ta phân biệt được năng lực với kỹ năng (skill) – một trong những yếu tố cấu thành nên năng lực. Mỗi năng lực nên gắn với một loại hoạt động, chẳng hạn: năng lực giao tiếp, năng lực tư duy, năng lực lãnh đạo… Các năng .ực này được thể hiện ở những kỹ năng liên quan cụ thể như: kỹ năng nói, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng làm việc nhóm… Thực ra, sự phối hợp nhiều kỹ năng chính là cấu trúc của năng lực, ngoài ra còn có thể bao gồm kiến thức, kỹ năng, thái độ cụ thể khác [17], [18].
Mối quan hệ giữa năng lực và kiến thức, kỹ năng, thái độ
Năng lực là tổ hợp đo lường được các kiến thức, kỹ năng và thái độ mà một người cần vận dụng để thực hiện một nhiệm vụ trong một bối cảnh thực nhiều biến động. Để thực hiện một nhiệm vụ, một công việc có thể đòi hỏi nhiều năng lực khác nhau.
Vì năng lực được thể hiện thông qua việc thực hiện nhiệm vụ nên người học cần chuyển hoá những kiến thức, kỹ năng và thái độ có được vào giải quyết những tình huống xảy ra trong môi trường hoạt động. Như vậy, có thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực để người học tìm được giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối cảnh thực là đặc trưng quan trọng của năng lực, tuy nhiên, khả năng đó lại có được dựa trên sự đồng hoá và vận dụng có cân nhắc kiến thức, kỹ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể. Kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực là những kiến thức mà người học phải năng động, tự kiến tạo, huy động được. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được vận dụng để kiến tạo ra kiến thức mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt ra cơ sở để hình thành những năng lực mới.
Kỹ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen thuộc. Kỹ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm nhiều kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm thực tế giúp cá nhân có thể thích ứng với hoàn cảnh thay đổi.
Kiến thức, kỹ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong mỗi lĩnh vực hoạt động nào đó. Không thể có năng lực về toán nếu khong có kiến thức nền tảng và được thực hành, luyện tập trong những dạng bài toán khác nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kỹ năng trong một số lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả nguồn kiến thức, kỹ năng cùng với thái độ, giá trị và trách nhiệm của bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.
Thái độ ở đây cần được hiểu là những phẩm chất và hành vi liên quan tinh thần và quan hệ trong công việc. Và có thể đo đếm đánh giá được, nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng công việc. thái độ không phải là cái gì quá khó để học, nhưng nó lại không phải là một môn học theo cách hiểu thông thường. Làm sao có thể đào tạo thái độ nếu không có một thang điểm đúng đắn, không có kiểm tra/thi cử. Các trường muốn đào tạo về thái độ, trước hết phải định nghĩa cho rõ thái độ là gì, bao gồm những tiêu chí nào, yêu cầu với từng tiêu chí ra sao. Khi xây dựng chương trình đào tạo, các trường đại học vẫn lấy ý kiến phản hồi của doanh nghiệp về kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết mà người học cần đạt được. Thái độ là điều mà doanh nghiệp rất coi trọng, thậm chí hơn cả kiến thức chuyên môn nếu họ muốn ứng viên gắn bó cống hiến lâu dài cho doanh nghiệp. Vì thế, các trường vẫn phải có những buổi sinh hoạt chuyên đề cho sinh viên, mời doanh nghiệp về trò chuyện trực tiếp các nội dung như cách ứng xử, ý thức, tinh thần học hỏi, trách nhiệm, tác phong làm việc trong doanh nghiệp… và thấy rõ ràng sinh viên có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, để hoàn thiện và hình thành theo đúng hướng thì sinh viên cần phải học hỏi trong cả một quá trình. Mối quan hệ chặt chẽ giữa năng lực với kiến thức, kỹ năng và thái độ được thể hiện qua hình 1 bên dưới.
Tầm quan trọng của việc trang bị kỹ năng cho sinh viên
Giao tiếp xã hội giữa con người và con người góp phần tạo nên những truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội, và cả luật pháp. Tất cả cùng nhau tạo nên những nền tảng của xã hội loài người. Có thể nói giao tiếp xã hội là một trong những thuộc tính đặc biệt và duy nhất giúp loài người khác biệt so với các sinh vật khác. Đó là sự tương tác giữa con người với con người, với một cá nhân, tập thể hay một cộng đồng. Có thể nói con người không thể sống thiếu đi sợi dây liên kết với xung quanh. Ngày nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển thì việc tạo ra sự kết nối ngày càng mở rộng. Điều đó làm cho sự tương tác của con người với con người không chỉ theo chiều rộng và còn phát triển theo chiều sâu. Do đó ngoài các kỹ năng giao tiếp con người còn phải chuẩn bị thêm cho mình rất nhiều kỹ năng như: kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng học và tự học, kỹ năng lãnh đạo….
Đặc biệt hơn, đối với các bạn sinh viên, việc học tập và trau dồi kỹ năng lại càng trở nên quan trọng. Sở dĩ vì khi còn là một học sinh, vẫn nhận được sự quan tâm, chăm sóc từ bố mẹ, nhưng khi trở thành một sinh viên phải làm quen với cuộc sống tự lập, nhất là đối với phần đông những sinh viên đi học xa nhà. Không chỉ làm quen với cuộc sống mới, sinh viên còn phải làm quen với phương pháp học tập mới. Nếu như vẫn áp dụng phương pháp học tập cũ như chỉ đến lớp nghe thầy cô giáo giảng bài, ghi chép bài, làm bài theo đúng yêu cầu của thầy cô giáo đưa ra, không có bất kì sự sáng tạo nào khác trong học tập thì việc học ở Đại học không mang lại kết quả cao. Để đạt được hiệu quả học tập tốt trong môi trường Đại học, ngoài việc lắng nghe thầy cô giáo giảng bài, tiếp thu ý kiến của thầy cô, sinh viên còn cần tự nghiên cứu các tài liệu liên quan đến học tập. Hơn thế nữa, rất nhiều trường đại học hiện nay đào tạo theo hình thức tín chỉ, điều này yêu cầu sinh viên cần trang bị thêm kỹ năng học và tự học để theo kịp tiến độ giảng dạy.
Tại Mỹ, Bộ Lao Động Mỹ (The U.S. Department of Labor) cùng Hiệp hội Đào tạo và Phát triển Mỹ (The American Society of Training and Development) gần đây đã đề xuất 13 kỹ năng cơ bản cần thiết để thành công trong công việc, bao gồm:
- Kỹ năng học và tự học (learning to learn)
- Kỹ năng lắng nghe (Listening skills)
- Kỹ năng thuyết trình (Oral communication skills)
- Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)
- Kỹ năng tư duy sáng tạo (Creative thinking skills)
- Kỹ năng quản lý bản thân và tinh thần tự tôn (Self-esteem)
- Kỹ năng đặt mục tiêu và tạo động lực làm việc (Goal setting/ motivation skills)
- Kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp (Personal career development skills)
- Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập mối quan hệ (Interpersonal skills)
- Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork)
- Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills)
- Kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả (Organizational effectiveness)
- Kỹ năng lãnh đạo (Leadership skills)
Năm 1989, Bộ Lao động Mỹ cũng đã thành lập Uỷ ban Thư ký về Rèn luyện các Kỹ năng cần theiets (The Secretary’s Commission on Achieving Necessary Skills – SCANS). Thành viên của uỷ ban đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, kinh doanh, doanh nhân, người lao động, công chức,… nhằm mục đích thúc đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao động kỹ năng cao và công việc thu nhập cao [19].
Tại Úc, Hội đồng Kinh doanh Úc (The Business Council of Australia – BCA) và Phòng thương mại và công nghiệp Úc (the Australian Chamber of Commerce and Industry – ACCI) với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Ðào tạo và Khoa học (The Department of Education, Science and Training – DEST) và Hội đồng giáo dục quốc gia Úc (The Australian National Training Authority – ANTA) đã xuất bản cuốn “Kỹ năng hành nghề cho tương lai” (năm 2002). Cuốn sách cho thấy các kỹ năng và kiến thức mà người sử dụng lao động yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ năng hành nghề là các kỹ năng cần thiết không chỉ để có được việc làm mà còn để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp vào định hướng chiến lược của tổ chức. Các kỹ năng hành nghề bao gồm 08 kỹ năng sau [20]:
- Kỹ năng giao tiếp (Communication skills)
- Kỹ năng làm việc nhóm (Teamwork skills)
- Kỹ năng sáng tạo và đổi mới (Initiative and enterprise skills)
- Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc (Planning and organising skills)
- Kỹ năng quản lý bản thân (Self – management skills)
- Kỹ năng học tập (Learning skills)
- Kỹ năng công nghệ thông tin (Technology skills)
Chính phủ Canada cũng có một bộ phụ trách về việc phát triển kỹ năng cho người lao động. Bộ Phát triển Nguồn Nhân lực và Kỹ năng Canada (Human Resources and Skills Development Canada – HRSDC) có nhiệm vụ xây dựng nguồn nhân lực mạnh và có năng lực cạnh tranh, giúp người Canada nâng cao năng lực ra quyết định và năng suất làm việc để nâng cao chất lượng cuộc sống. Bộ cũng có những nghiên cứu để đưa ra danh sách các kỹ năng cần thiết đối với người lao động. Ngoài ra, Conference Board of Canada là một tổ chức phi lợi nhuận của Canada dành riêng cho nghiên cứu và phân tích các xu hướng kinh tế, cũng như năng lực hoạt động các tổ chức và các vấn đề chính sách công cộng. Tổ chức này cũng đã có nghiên cứu và đưa ra danh sách các kỹ năng hành nghề cho thế kỷ 21 (Employability Skills 2000+) bao gồm các kỹ năng như [21]:
- Kỹ năng giao tiếp (Communication)
- Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving)
- Kỹ năng tư duy và hành vi tích cực (Positive attitudes and behaviours)
- Kỹ năng thích ứng (Adaptability)
- Kỹ năng làm việc với con người (Working with others)
- Kỹ năng nghiên cứu khoa học, công nghệ và toán (Science, technology and mathematics skills)
Chính phủ Singapore có Cục phát triển lao động WDA (Workforce Development Agency), WDA đã thiết lập hệ thống các kỹ năng hành nghề ESS (Singapore Employability Skills System) gồm 10 kỹ năng [22]:
- Kỹ năng công sở và tính toán (Workplace literacy & numeracy)
- Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (Information & communications technology)
- Kỹ năng giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định (Problem solving & decision making)
- Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm (Initiative & enterprise)
- Kỹ năng giao tiếp và quản lý quan hệ (Communication & relationship management)
- Kỹ năng học tập suốt đời (Lifelong learning)
- Kỹ năng tư duy mở toàn cầu (Global mindset)
- Kỹ năng tự quản lý bản thân (Self – management)
- Kỹ năng tổ chức công việc (Workplace – related life skills)
- Kỹ năng an toàn lao động và sức khoẻ (Health & workplace safety)
Ở Việt Nam, tổng hợp các nghiên cứu của các nước và thực tế Việt Nam, dưới góc độ của nhóm tác giả thấy rằng 10 kỹ năng sau là căn bản và quan trọng hàng đầu cho người lao động trong thời đại ngày nay:
- Kỹ năng học và tự học (Learning to learn)
- Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân (Self leadership and Personal branding)
- Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm (Initiative and enterprise skills)
- Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc (Planning and organising)
- Kỹ năng lắng nghe (Listening skills)
- Kỹ năng thuyết trình (Presentation skills)
- Kỹ năng giao tiếp và ứng xử (Interpersonal skills)
- Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)
- Kỹ năng làm việc nhóm (Teamwork)
- Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills)